17/01/2018 8:48:04 SA
Ung thư gan là loại ung thư phổ biến đứng hàng thứ 5 nam giới và thứ 7 nữ giới với hơn nửa triệu trường hợp mắc bệnh mới được chẩn đoán mỗi năm trên toàn thế giới. Đây cũng là nguyên nhân đứng hàng thứ 3 gây tử vong do ung thư trên toàn thế giới sau ung thư phổi và ung thư dạ dày.
Vào năm 2010, ước tính có khoảng 754.000 người tử vong do ung thư gan. Carcinom tế bào gan (1) (thường gọi tắt là HCC) là dạng ung thư gan phổ biến nhất - chiếm 80% trường hợp mắc ung thư gan. Trên 80% trong số các trường hợp ung thư gan được tìm thấy các quốc gia châu Á và khu vực châu Phi cận Sahara.
Theo số liệu ghi nhận ung thư quần thể năm 2004, Tp Hồ Chí Minh trong 10 loại ung thư thường gặp thì ung thư gan đứng hàng thứ nhất - nam (tần suất 38,2 trường hợp trên 100.000 dân mỗi năm) và đứng hàng thứ 6 - nữ (tần suất 8,3 trường hợp trên 100.000 dân mỗi năm). Ở Hà Nội, ung thư gan đứng hàng thứ 3 - nam giới và hàng thứ 7 - nữ giới. Trong những năm gần đây, trung bình mỗi năm Việt Nam có trên 10.000 ca mắc ung thư gan mới và trở thành quốc gia có tỷ lệ người mắc bệnh ung thư gan đứng hàng đầu thế giới.
Bệnh sử gia đình có ung thư gan: Trong một nghiên cứu của Hoa Kỳ, những người có bệnh sử gia đình độ I về ung thư gan liên quan đến các yếu tố di truyền trong môi trường (xảy ra cho bố mẹ, anh chị em ruột, hay con cái bị ung thư gan) sẽ bị ung thư gan nhiều hơn khoảng 4 lần so với những người không có bệnh sử gia đình như vậy.
Bệnh nhiễm sắc tố sắt di truyền: Là một bệnh trong đó cơ thể hấp thu và tích trữ quá nhiều sắt dư thừa ở gan. Bệnh này là một trong những bệnh thường gặp nhất ở Hoa Kỳ và gặp khi người đó thừa hưởng đột biến gen đặc hiệu từ cả cha lẫn mẹ có nguy cơ ung thư gan cao hơn. Bệnh Wilson là một bệnh di truyền hiếm gặp, tích lũy nhiều đồng ở gan, não… cũng có nguy cơ ung thư gan cao. Khoảng 75% các trường hợp ung thư gan nguyên phát xảy ra trên nền xơ gan do nguyên nhân: viêm gan siêu vi C hay B (nguy cơ ung thư gan cao gấp 7 - 29 lần so với người không nhiễm và đặc biệt cao đến 65 - 95% khi đã có xơ gan), nghiện rượu kinh niên và ứ mật nguyên phát, do nhiễm sắc tố sắt...
Nhiễm virut viêm gan B (HBV) mạn tính: Nhiễm HBV mạn tính chiếm trên một nửa số trường hợp ung thư gan trên toàn thế giới. HBV có thể lây qua tiếp xúc với máu người bệnh hay kim tiêm hoặc quan hệ tình dục với người bệnh, hoặc mẹ truyền cho con sơ sinh. Khả năng nhiễm HBV mạn tính thay đổi theo tuổi bị lây nhiễm và xảy ra cho khoảng 90% người bị nhiễm lúc còn là trẻ dưới 7 tuổi và 2 - 6% người bị nhiễm khi đã trưởng thành. Trong số người bị nhiễm mạn tính, có khoảng 15 - 25% sẽ tử vong sớm do xơ gan hoặc ung thư gan.
Nhiễm virut viêm gan C (HCV): Nhiễm HCV mạn tính là một yếu tố nguy cơ quan trọng khác của ung thư gan và người ta nghĩ rằng ung thư gan có tăng lên ít nhiều ở Hoa Kỳ trong mấy thập niên gần đây. Ở Bắc Mỹ, HCV gây ra số ca ung thư gan nhiều hơn HBV. Nguyên nhân lây nhiễm tương tự như với HBV.
Nghiện rượu nặng: Nghiện rượu nặng lâu dài làm tăng nguy cơ ung thư gan. Theo một đánh giá, dùng 6 - 7 liều uống mỗi ngày trong hơn 10 năm làm tăng nguy cơ ung thư gan lên hơn 5 lần. Ở Hoa Kỳ, nghiện rượu nặng chiếm khoảng 1/3 tổng số ca HCC.
Bệnh đái tháo đường: Phân tích phối hợp các nghiên cứu đã công bố trước đây (đa số tập trung vào đái tháo đường týp II) cho thấy đái tháo đường đi đôi với tăng gấp đôi nguy cơ HCC. Tuy vậy, đái tháo đường cũng có thể là kết quả của các bệnh gan mạn tính.
Béo phì: Béo phì làm tăng nguy cơ một số loại ung thư gồm ung thư nội mạc tử cung, ung thư vú sau mãn kinh và ung thư đại tràng. Gần đây hơn, các nghiên cứu cho thấy béo phì cũng có thể làm tăng nguy cơ ung thư gan. Sự phát triển của bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu có thể giải thích cho một số liên quan giữa béo phì và HCC.
Thuốc lá: Một phân tích tổng hợp cho thấy những người hút thuốc có khả năng sẽ bị ung thư gan nhiều hơn 56% so với những người không hút.
Độc tố aflatoxin B1 của nấm Aspergillus flavus có trong các loại ngũ cốc bị mốc như gạo, đậu phộng, bắp được xem là tác nhân quan trọng của ung thư gan ở các nước kém phát triển.
Tiêm chủng viêm gan B: Việc tiêm chủng thường qui cho trẻ em chống HBV được chỉ định ở Hoa Kỳ và nhiều nước khác. Cũng cần tiêm chủng cho các trẻ lớn và trẻ vị thành niên trước đó chưa được tiêm phòng và cho cả người lớn có nguy cơ nhiễm HBV.
Tránh HCV: Từ 1992, truyền máu ở Hoa Kỳ được kiểm tra loại trừ HCV nên đã giảm rất nhiều nguy cơ nhiễm do truyền máu. Cho đến nay, chưa có được vắc-xin chống HCV.
Hạn chế uống rượu: Khuyến cáo không dùng quá 2 đơn vị rượu mỗi ngày cho nam giới và quá 1 đơn vị cho phụ nữ. Người bị viêm gan hay một bệnh khác của gan phải bỏ rượu hoàn toàn. Điều trị tốt bệnh viêm gan mạn tính để hạn chế tiến trình dẫn đến xơ gan.
Phòng ngừa và điều trị bệnh gan nhiễm mỡ.
Tầm soát có nghĩa là sử dụng theo đúng lịch trình một số các khám, xét và thử nghiệm cho những trường hợp chưa có các triệu chứng ung thư, nhất là cho những người bị xơ gan.
Siêu âm: Siêu âm gan mỗi 6 - 12 tháng để phát hiện ung thư gan ở giai đoạn sớm nhất có thể được. Khi thấy một nhân phát triển ở gan, có thể làm thêm các thử nghiệm khác hoặc kiểm soát thường xuyên hơn để xác định chẩn đoán.
Thử Alpha-fetoprotein (AFP): Ung thư gan có thể làm tăng một protein có trong máu là AFP và thử AFP có thể sử dụng để tầm soát ung thư gan. Cần xét nghiệm AFP định kỳ mỗi 3 - 6 tháng cho những trường hợp viêm gan virut B hoặc C, xơ gan do bất cứ nguyên nhân nào, tiền căn gia đình có người bị ung thư gan.