Đột quỵ (hay còn gọi là tai biến mạch máu não) là bệnh lý nghiêm trong gây tàn phế hàng đầu và tử vong đứng hàng thứ hai trên thế giới. Tuy nhiên, không phải ai cũng có nguy cơ đột quỵ. Có thể chia nguyên nhân đột quỵ thành hai nhóm: nhóm xơ vữa gây tắc mạch máu não và nhóm xuất huyết não. Trong khi nhóm xuất huyết não chỉ chiếm khoảng 15% và chủ yếu là do dị dạng mạch máu não bẩm sinh thì chiếm đa số 85% là các bệnh nhân xơ vữa mạch máu. Xơ vữa mạch máu xảy ra ở cơ quan nào (tim, não, thận, chi..) thì cơ quan đó sẽ bị thiếu máu nuôi.
06/05/2021 11:12:24 CH
Nếu xơ vữa mạch máu xảy ra gây hẹp các động mạch cung cấp máu nuôi não, lúc nào đó xui rủi mảng xơ vữa bị bong tróc ra trôi lên trên và nghẹt hoàn toàn, thì một vùng não đột ngột không có máu nuôi, sẽ chết. Đó chính là đột quỵ. Cũng vậy, nếu hiện tượng bong tróc mảng xơ vữa xảy ra ở mạch máu nuôi tim, thì đó là biến chứng nhồi máu cơ tim, tim đột ngột không có máu nuôi có thể dẫn đến ngừng đập, hay còn gọi là đột tử.
Xơ vữa động mạch thường phát triển trong thời gian dài trước thời điểm đột quỵ - đột tử, do vậy phát hiện sớm xơ vữa mạch máu, kịp thời điều chỉnh các yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp, hút thuốc lá, tiểu đường,… là phương pháp tầm soát đột quỵ - đột tử hiệu quả nhất.
Xơ vữa động mạch ảnh hưởng lên toàn bộ hệ thống mạch máu cơ thể. Khi phát hiện xơ vữa ở một vị trí, hoàn toàn có thể nghi ngờ các vị trí khác cũng có thể có xơ vữa. Các mạch máu tim, não nằm ở sâu và khó khảo sát bằng các phương tiện thông thường. Mạch máu ở chân tay bị xơ vữa thường có triệu chứng như tê, đau, ngược lại, đa số các xơ vữa ở mạch cảnh (mạch máu ở cổ cung cấp máu cho não) lại thường không có triệu chứng. Ước tính khoảng 10-20% bệnh nhân đột quỵ có mối liên quan đến hẹp động mạch cảnh.
Các triệu chứng quan trọng cần nghĩ đến hẹp động mạch cảnh là:
· Cơn thiếu máu não thoáng qua: đột ngột yếu, liệt tay chân, méo miệng, nói đớ, sau đó tự hồi phục trong vòng 24 giờ
· Chứng mù thoáng qua: đột ngột thấy một tấm màn che hoặc một thác nước đi lên đi xuống xóa tất cả hoặc một phần vùng nhìn của mắt. Bệnh nhân không thấy đau và hiện tượng này thường hết trong vòng 1 giờ.
Đánh giá tình trạng xơ vữa mạch máu bằng kỹ thuật siêu âm động mạch cảnh cũng chính là tầm soát "nguyên nhân" chính gây đột quỵ, đồng thời cũng tầm soát cả nguyên nhân gây nhồi máu cơ tim, đột tử, và nhiều biến chứng khác nữa của xơ vữa mạch máu.
Động mạch cảnh nằm sát da cổ nên rất thuận lợi cho siêu âm. Hình ảnh siêu âm có thể thấy rõ hình dạng mảng xơ vữa, vận tốc máu qua chỗ hẹp, ước lượng mức độ hẹp. Mức độ hẹp ≥ 50% được coi là có ý nghĩa và ≥ 70% được xem là nhiều. Siêu âm là phương pháp đơn giản, không sử dụng tia phóng xạ, không gây đau, không tiêm thuốc và có thể lặp đi lặp lại nhiều lần, tiện cho việc theo dõi.
Do tính tiện lợi của siêu âm nên độ nhạy khi phát hiện xơ vữa rất cao, khoảng 10-20% người bình thường không có bệnh lý tim mạch cũng có hẹp > 50%. Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp có hẹp đều cần điều trị phẫu thuật hay đặt stent, vì ngay cả các phương pháp điều trị xâm lấn cũng có rủi ro làm tăng nguy cơ đột quỵ. Các bác sĩ sẽ không chỉ định can thiệp nếu bạn không có triệu chứng và mức độ hẹp < 70%.
Đôi khi, một bức ảnh có giá trị hơn vạn lời nói. Để bạn thấy được hình ảnh một mảng xơ vữa có khả năng gây đột quỵ có thể thôi thúc bạn thay đổi chế độ ăn, lối sống, tập thể dục và tuân thủ điều trị hơn. Do vậy, nếu bạn có nhiều yếu tố nguy cơ bệnh tim mạch như: tăng huyết áp, đái tháo đường, tăng lipid máu, hút thuốc lá, gia đình có người thân bệnh tim mạch sớm hoặc bạn từng trải qua các triệu chứng cảnh báo của hẹp động mạch cảnh, việc khám và tầm soát bằng siêu âm là một phương tiện hữu ích để đánh giá xơ vữa mạch máu.
Bài viết được tư vấn bởi Ths. BS. Hoàng Công Đương